Thưởng trà là nét văn hóa thuần túy lâu đời của người Việt
Ở Việt Nam, có thể thấy trà có mặt trong mọi hoạt động xã hội từ trong gia đình ra ngoài phố, từ nhà hàng, quán chợ cho đến những nơi tiếp khách sang trọng. Từ tế lễ, cưới hỏi, sinh nhật, ma chay, cúng giỗ…
Nếu trà dùng khi nhất ẩm (uống trà một mình) là lúc người đó đang nhâm nhi lẩm nhẩm thi thơ ôn luyện, nếu song ẩm (hai người uống trà) thì cùng cởi mở văn bài tiêu dao, thậm chí hưng phấn cùng cầm kỳ thi họa và cùng nhau thưởng thức tiếng oanh nỉ non ngoài vườn. Trà cũng như người bạn tâm giao của con người khi có tâm sự, giúp cho người ta nhớ đến tri ân tri kỷ hoặc suy ngẫm về người, về mình, về nhân tình thế thái những năm tháng qua. Khi giận dữ không ai tự pha được ấm trà ngon, chỉ sau khi nguôi ngoai người ta mới có thể ngồi uống trà như một cách thiền “chánh niệm” vậy.
Cả bốn mùa Xuân, hạ, thu, đông, người ta uống trà để “phản quan tự kỷ”. Vui cũng uống, buồn cũng uống, uống để tìm thấy chính mình, để sẻ chia, để mỡ lòng dung thông..Sự tha thiết ấy phải chăng vì trà là một vật trung gian, một văn hoá sống của người Việt.
Nghệ thuật thưởng trà của người việt xưa và nay
Phong cách uống trà của người Việt Nam rất đa dạng không theo chuẩn mực nào, biểu hiện đầy đủ khía cạnh ngôn ngữ sâu xa trong văn hóa ứng xử đầy tính sáng tạo của người pha trà và người được mời uống trà đã được nâng lên bậc nghệ thuật pha trà và văn hóa uống trà.
Người trong Hoàng cung trước kia khi pha trà cho các ông vua, bà hoàng rất cầu kỳ và công phu, phải hứng từng giọt sương trên búp sen vào lúc chưa có ánh nắng. Còn các cụ xưa thường dùng nước mưa sẽ giúp cho nước trà tăng thêm vị ngọt, sau khi uống sẽ thấy vị ngọt lưu lại nơi cổ họng. Kỹ năng pha trà tùy theo kinh nghiệm bí quyết của mỗi người, tùy vào chất lượng và hương vị của mỗi loại trà nên pha loại ấm nào. Trước khi pha trà phải tráng ấm bằng nuớc sôi cho nóng trước rồi cho trà vào, khi pha xong đậy nắp kín tiếp tục rót nước sôi từ trên nắp xuống như tắm ấm để giữ nhiệt độ nóng trong ấm giúp cho các cánh trà được thấm đều.
Để có một cuộc trà ngon với đầy đủ lễ nghi phải hội đủ những tiêu chí: Nhất thuỷ (tức nước pha trà), Nhì trà (là loại trà người Việt thường uống- trà xanh), Tam bôi, Tứ bình (là dụng cụ để pha trà và uống trà). Tuỳ theo từng miền Bắc, Trung, Nam mà cách dùng ấm và chén trà có khác. Người Huế thường dùng kiểu Vũ xuân thu ẩm; uống trà vào mùa xuân và mùa thu, kiểu Hà ẩm dùng cho mùa hạ, chén nhỏ giúp nước nhanh nguội, kiểu Đông ẩm thì chén trà dầy, lồng chén sâu giữ cho trà lâu nguội. Dù xuất xứ từ đâu, uống trà đã trở thành một phong tục và thói quen với người Việt Nam. Mời trà là một ứng xử văn hoá biểu hiện sự lễ độ, lòng mến khách. Uống trà cũng là một cách ứng xử văn hoá, uống để đáp lại lòng mến khách của người dâng trà, để bắt đầu lời tâm sự. Mời trà và dùng trà cũng là một biểu hiện sự tri kỷ, sự kết giao, lòng mong muốn hoà hợp, sự tỉnh tâm để mưu điều thiện, tránh điều ác.
Sự thay đổi của bộ bàn trà trong nghệ thuật thưởng trà
Như trên đã nói, thưởng trà là một nét đẹp văn hóa lâu đời của người Việt. Sau mấy trăm năm lịch sử, sự thay đổi về nghệ thuật và không gian thưởng trà là điều tất yếu. Ngày nay, không gian thưởng trà có nhiều thay đổi nhưng vẫn mang những nét đặc trưng riêng của nghệ thuật thưởng trà là sự tao nhã và tinh túy. Những mẫu bàn trà cổ điển ngày càng được những "nghệ nhân thưởng trà" ưa chuộng bởi sự tinh tế của nó. Nếu như dụng cụ thưởng trà xưa là những cơi tre hay cơi gỗ mộc mạc giản dị thì ngày nay được thay thế bằng những bộ bàn trà cổ điển thiết kế đơn giản tao nhã. Những người thưởng trà vẫn giữ được những nét thanh túy của nghệ thuật thưởng trà của người xưa. Ngày nay, người sành trà Việt không chỉ uống trà tại gia mà còn tìm đến các quán và nhà hàng chay để thưởng thức vị trà tinh túy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét